Bài khảo cứu của Đức Cố Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc

 Gần đây có một số người cho chúng tôi biết muốn tìm hiểu tường tận về danh xưng Giavê trong Cựu Ước – thế nên chúng tôi xin phép chuyển đăng bài khảo cứu của Đức Cố Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc (1944-2018) – nguyên Tổng Giám Mục giáo phận Sài gòn.

 

 1. Thiên Chúa có tên

Muốn biết ai, trước tiên chúng ta phải biết tên người đó. Tên thường gắn liền với con người. Trong bất cứ xã hội nào thuộc bất cứ nền văn hóa nào, dù là Ðông phương hay Tây phương, tên của con người đều có một tầm quan trọng rất lớn, đến nỗi có người dám nói ”tên tức là người”. Dĩ nhiên có tên xấu, có tên đẹp, có tên thanh. Và có những ngườI không thích tên của mình, muốn thay đổi tên khác đẹp hơn. Nhưng ai ai cũng phải có tên. Cái tên cần thiết để chúng ta hiện diện ở đời, trước mặt những người khác. Tên nói lên sự hiện hữu ở đời của con người. Tên là khởi đầu ”mạc khảí” về con người. Tên cần thiết để thiết lập tương giao giữa người với người, đồng thời xác định ”chủ vị tính” của mỗi một người.

Ðối với ngườI thân quen, tên có sức gợi lên một hình ảnh sống động và gần như đầy đủ về cá nhân người đó. Tùy trường hợp mà tên có thể mang mầu sắc trìu mến hay oán thù, tích cực hay tiêu cực, phong phú hay nghèo nàn lãnh đạm. Tên của người trên còn có uy thế tác động tới người dưới.

Biết Tên Thiên Chúa là khởi đầu biết Thiên Chúa. Tên Thiên Chúa là mạc khải đầu tiên về Người. Tên của Ngài nói lên tương giao giữa Ngài với con ngườI, hoặc là tương giao sẵn có hay là tương giao tự ý Ngài thiết lập.

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa không chấp nhận cho dân Israel làm ra cờ quạt, ảnh tượng hay phù hiệu để chứng tỏ thuộc về Người; nhưng Người ban cho họ một danh hiệu, và danh hiệu này chứng tỏ Người là Chúa của họ và họ thuộc về Người.

Hơn thế nữa, tên của Thiên Chúa còn nói lên một phần nào bản chất của Thiên Chúa. Tên chứa đựng và bôc lộ các ưu phẩm của Người. Thiên Chúa mạc khải tên của Người cho Israel hoàn toàn vì lòng thương xót, vì Người có thể từ chối không cho họ biết tên.

Tên của Thiên Chúa gợi lên gần như trọn vẹn hình ảnh của Thiên Chúa, vì thế mà có người cho rằng tên ”Giavê” tóm lược nội dung mạc khải và hàm chứa trọn vẹn niềm tin của Israel.

Hàm nghĩa của cái tên tùy thuộc vào tương giao giữa người biết tên và người được biết tên, tương giao càng chặt chẽ, hàm nghĩa càng sâu rộng. Ðối với dân riêng của Thiên Chúa, gia nghiệp của Thiên Chúa, Danh là tất cả, chứa đựng tất cả. Danh Giavê gợi lên tất cả những gì Thiên Chúa đã là cho Israel. Kêu cầu Danh Giavê là bảo đảm được cứu độ. Ca ngợi Danh Giavê là hạnh phúc, vinh dự, cũng là sứ mạng của Israel.

Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu các khía cạnh trên dựa vào ba đoạn Kinh Thánh chủ yếu mạc khải Danh Giavê thuộc ba truyền thống Cựu Ước khác nhau: Elôhít (E), Giavít (Y) và Tư Tế (P)

2. Mạc Khải Danh Thiên Chúa Theo Sách Xuất Hành

 

2.1 Truyền Thống Êlôhít (E) (Xh 3, 9-15)

Việc chú giải đoạn Kinh Thánh này còn gây nhiều tranh luận, nhưng cũng có một số những điểm chủ yếu khá rõ rệt và nổi bật.

A. Câu hỏi của Môsê

”Này, tôi đây, tôi sẽ đến vớI con cái Israel và nói vớI họ: Thiên Chúa của cha ông các ngươi đã sai tôi đến vớI các ngươi! Và nếu họ sẽ nói với tôi: ”Tên Người là gì? Thì tôi sẽ nói làm sao với họ?” (Xh 3,13)

Theo văn mạch, Môsê đang ở trong tâm trạng lo sợ và bối rối khi hỏi Danh tánh Thiên Chúa, biết Người là ai. Về phía Thiên Chúa, cho biết tên là cho biết chính mình và sẵn sàng thiết lập một tương giao cụ thể, sẵn sàng trả lờI khi được kêu cầu, sẵn sàng trợ giúp khi cần thiết.

Cho biết tên không chỉ nhằm khía cạnh thuần túy tri thức nhưng còn chứa đựng yếu tố tâm tình và ý muốn.

Xh 3,1-5 soi sáng thêm ý nghĩa van nài của Môsê, một dân tộc đang bị áp bức, đang làm nô lệ khó có thể tin ở Môsê, nếu không có dấu hiệu nào chứng tỏ ông nhân danh Thiên Chúa quyền năng đến giải phóng họ. Vì thế Danh xưng bao hàm yếu tố uy quyền. Không phải bất cứ ai đều có quyền trên Israel. Chỉ có Thiên Chúa hoặc người nào đích thực nhân danh Thiên Chúa mà đến.

B.Câu trả lời cho Môsê :

Danh Giavê và ý nghĩa

”Thiên Chúa phán với Môsê: ”Ta có sao Ta có vậy!” Và Người phán: ” Ngươi sẽ nói với con cái Israel thế này: Ta có đã sai tôi đến với các ngươi!” (Xh 3,14).

Có rất nhiều lối chú giải khác nhau về câu Thiên Chúa trả lời cho Môsê và về ý nghĩa Danh xưng Giavê.

Có người nói rằng Môsê đối diện với Thiên Chúa ”Tự khảí” (Deus revelatus): Danh Thiên Chúa biểu lộ bản chất của Người. Người khác chủ trương rằng Thiên Chúa hiện ra vớI Môsê là Thiên Chúa ”ẩn giấu” (Deus absconditus): Người từ chối xưng Danh tánh, nhưng khẳng định tính siêu việt và huyền nhiệm của chính mình. Có ngườI khác lại cho rằng Thiên Chúa đối thoại với Môsê vừa là Thiên Chúa tự khải vừa là Thiên Chúa ẩn giấu (Deus Revelatus et Absconditus).

Chúng ta nên vượt qua biện chứng ”tỏ hiện và ẩn giấú” dù biện chứng này có thể áp dụng phù hợp cho Thiên Chúa. Ngoài yếu tố tri thức, việc mạc khải Danh xưng Thiên Chúa chứa đựng yếu tố ý muốn và hành động, và còn là bảo đảm cho sứ mạng của Môsê.

Về ý nghĩa câu trả lời của Thiên Chúa, chúng ta có thể nêu một vài nét cốt yếu như sau:

  1. Khi nhận ra mục tiêu câu hỏi không nhằm tìm hiểu bản chất hay yếu tính của Thiên Chúa, chúng ta có thể khẳng định rằng câu trả lời của Thiên Chúa không minh nhiên chứa đựng một ý niệm siêu hình về Thiên Chúa như là ”Ðấng Tự Hữu, Ðấng Hằng Có”.

  1. Có thể giải thích một phần theo chiều hướng phủ định. Thiên Chúa không muốn dân Người có não trạng ngoại đạo đòi làm chủ thần linh theo ý mình. Ngược lại chính dân phải thực hiện chương trình của Thiên Chúa, phải thờ phượng Người, đáp lại lời mời gọi của Người và tuân phục thánh ý của Người.

  1. Nghĩa khẳng định: câu hỏi của Môsê là một câu hỏi thực tiễn, vì thế câu trả lời cũng có ý nghĩa thực tiễn: ông sẽ nhân danh Giavê và dân sẽ nghe theo ông tôn thờ Giavê và sống dưới sự chỉ đạo của Giavê. Trong câu trả lời có hàm chứa ý nghĩa một lời hứa: Chúa sẽ luôn luôn ở với Môsê và với dân. Ngoài ra cũng có thể nghĩ rằng việc mạc khải Danh Giavê mang theo một chiều kích chính trị: Israel chỉ có một Chúa, chỉ tin một Chúa và theo sau một Chúa duy nhất; Israel trở thành một dân riêng khác với các dân tộc lân bang; Israel có thế đứng chính trị độc lập, từ nay thuộc về Giavê chứ không thuộc về một ai khác.

Giavê là danh xưng riêng biệt của Thiên Chúa chủ vị, là bảo chứng khiến cho dân tin tưởng sẵn sàng theo con đường mà Thiên Chúa đã vạch ra: Giavê là Thiên Chúa ở cùng dân, giải thoát dân ra khỏi Ai cập… đưa dân vào Ðất Hứa chảy sữa và mật ong.

2.2 Truyền Thống Giavít(Y) (Xh 33,12-34,28)

Giavê là Thiên Chúa gần kề và đầy lòng nhân aí. Người là Thiên Chúa mà cha ông đã tin tưởng và tôn thờ.

Bài tường thuật Giavít về Giao Ước Sinai có hai khía cạnh đặc biệt :

– Nhấn mạnh lòng nhân hậu và từ bi của Thiên Chúa đói với dân.

– Ðề cao lòng tin tưởng và thái độ kính yêu Thiên Chúa của dân Israel.

  1. Hai lờI thỉnh cầu của Môsê

”Bây giờ nếu quả tôi đã được nghĩa với Người, xin Người hãy tỏ cho tôi biết đường lối của Người, cho tôi được biết, ngõ hầu tôi được Nghĩa với Ngài, xin hãy coi nước này là dân của Ngàí’. Người phán : ”Nhan Ta sẽ đi, và Ta sẽ cho ngươi được an nghỉ!”. Ông thưa với Người : ”Nếu Nhan Người không đi, xin đừng đưa chúng tôi lên khỏi đây! Và làm sao người ta biết được đây là tôi được nghĩa với Người, tôi và dân của Người há lại không phải là được có Người đi với chúng tôi. Do đó chúng tôi được Người biệt đãi, tôi và dân của Người, khác mọi dân hết thảy có ở trên trần!” Giavê phán với Môsê: ”Cả điều ngươi vừa nói đó, Ta cũng sẽ làm, vì ngươi đã được nghĩa với Ta, vì Ta biết đích danh ngươí”. Ông thưa: ”Xin cho tôi thấy vinh quang Người”. (Xh 33,13-18).

Nhìn vào văn mạnh của đoạn Kinh Thánh, chúng ta thấy rõ ràng là Môsê ước muốn và khẩn cầu Thiên Chúa mạc khải chính mình cho ông, để ông được biết Thiên Chúa sâu xa hơn. Ông muốn Thiên Chúa bày tỏ đường lối của Người, vinh quang của Người cho ông, không phải vì riêng ông, mà vì toàn thể Dân Chúa. Ông ước ao Thiên Chúa tỏ ra gần gũi, cùng hành trình với ông và với dân, để chư dân thiên hạ nhận biết Israel thuộc về Thiên Chúa, được Thiên Chúa biệt đãi và không giống các dân ngoại. Lời thỉnh cầu của ông có vẻ như đặt điều kiện: nếu Thiên Chúa không đến gần, không cùng đi, thì dân sẽ không chịu rời bỏ Ai cập. Thực ra đó là van xin khẩn thiết, cầu mong sự trợ giúp và hiện diện của Thiên Chúa. Lời khẩn cầu này chứa đựng một ước muốn cảm nghiệm ơn cứu độ, hưởng nếm sự dịu ngọt của lòng yêu thương nhân từ của Thiên Chúa.

  1. Câu trả lời của Thiên Chúa

Người phán: ”Ta, Ta sẽ cho ngang qua trước mặt ngươi tất cả sự tất cả sự tốt lành của Ta và Ta sẽ kêu cầu Danh Giavê trước mặt ngươi. Ta thương kẻ Ta thương, Ta xót kẻ Ta xót”. Người phán: ”Ngươi không thể nhìn thấy nhan Ta, vì người phàm không thể nhìn thấy Ta mà vẫn sống”. Giavê phán: ”Này có chỗ bên Ta, ngươi đứng trên tảng đá, và xảy ra là khi vinh quang Ta ngang qua, Ta sẽ đặt ngươi trong khe đá và lấy bàn tay úp lại trên ngươi cho đến khi Ta đi và ngươi sẽ nhìn thấy phía sau Ta, nhưng nhan Ta, người ta sẽ không nhìn thấy được.” (Xh 33,19-34).

Thiên Chúa vừa từ khước vừa hứa hẹn. Môsê có ý muốn được nhìn thấy Thiên Chúa, được mạc khải cho biết huyền nhiệm thẳm sâu của Thiên Chúa. Thiên Chúa từ chối, không cho Môsê thấy mặt, nhưng chỉ được nhìn ”sau lưng”. Sự khước từ này càng biểu lộ tính huyền nhiệm của bản thân Người. Lời khước từ không phải là một lời từ chối suông, không muốn thông tri, không muốn ban phát, nhưng chứa một lời hứa cứu độ: Môsê sẽ thấy lòng nhân lành của Thiên Chúa, và như thế đã đủ cho ông và toàn dân. Sự khước từ đi đôi với lời hứa chứng tỏ Thiên Chúa là Ðấng hoàn toàn tự do trong hành động; lòng thương xót của NgườI hoàn toàn nhưng không.

  1. Thần hiển

”Và Giavê xuống trong đám mây và ông đứng đó vớI Người và kêu khấn Danh Giavê. Và Giavê đi qua trước mặt ông và hô: ”Giavê! Giavê! Thiên Chúa chạnh thương, huệ aí, bao dung và đày nhân nghĩa tín thành. Giữ nghĩa cho đến ngàn đời, chịu đựng lỗi lầm, quá phạm, tội khiên, nhưng không coi tội dường thể vô can, Ðấng trị tội cha trên con cháu ba bốn đời”.

Môsê vội vàng phục xuống đất mà thờ lạy. Và ông nói: ”Nếu quả tôi được nghĩa với Ngài, xin Chúatôi khấn đi làm một với chúng tôi, vì đó là một dân cứng cổ, và Người sẽ tha thứ tội lỗi chúng tôi và cho chúng tôi làm cơ nghiệp của Người” (Xh34,5-9). Lời từ chối của Thiên Chúa chỉ muốn nhấn mạnh tính huyền nhiệm và siêu việt của Thiên Chúa. Người vẫn bày tỏ Danh NgườI như Môsê mong ước. Chính Người đã kêu tên Giavê và mạc khải huyền nhiệm của chính mình. Khi tự hô tên mình, Giavê bày tỏ ý nghĩa giấu ẩn trong đó, ý nghĩa mà Người muốn cho toàn dân nhận biết.

 

Việc mạc khải Danh Thiên Chúa được diễn tả bằng hai công thức :

  1. Giavê Thiên Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung và đày nhân nghĩa tín thành.
  2. Giữ nghĩa đến ngàn đời, chịu đựng lỗi lầm, quá phạm, tội khiên, nhưng không coi tội dường thể vô can, Ðấng trị tội cha ông trên con cháu ba bốn đời.

Công thức thứ hai nhấn mạnh khía cạnh thưởng phạt và bảo vệ Giao Ước.

Công thức thứ nhất quan trọng hơn, diễn tả gương mặt đầy lòng nhân hậu và yêu thương của Thiên Chúa để gợi lên niềm hi vọng, lòng thống hối và tâm tình khẩn nguyện. Công thức này được lập lại rất nhiều lần ở những nơi khác trong Cựu ước. Nhưng cả hai công thức cũng thường xuyên đi đôi, vì mạc khải luôn được nối kết vớI Giao Ước.

Sau khi Thiên Chúa bày tỏ Danh Tánh mình cho Môsê, lời cầu khẩn của ông trở nên vừa khiêm nhường hơn, vừa táo bạo hơn. Ông phủ phục tôn thờ Thiên Chúa và van nài Thiên Chúa cùng hành trình với ông và dân chúng. Ông cũng cầu khẩn Thiên Chúa tha tội cho dân và chọn dân làm cơ nghiệp của Người.

Môsê xin điều mà Thiên Chúa đã sẵn sàng cho. Sáng kiến của Môsê phát xuất từ sáng kiến của Thiên Chúa. Nhưng lời van xin diễn tả ước ao tận đáy lòng được kết ước với Thiên Chúa.

 

2.3 Truyền Thống Tư Tế(P) (Xh 6,2-8).

”Thiên Chúa phán cùng Môsê và Người nói: ”Ta là Giavê! Ta đã từng hiện ra cho Abraham, Isaac, Giacóp như Elshadday, nhưng dưới danh hiệu Giavê. Ta chưa cho chúng biết. Hơn nữa Ta đã lập giao ước với chúng là ban cho chúng đất Canaan, đất chúng nương ngụ, nơi chúng đã sống như khách lạ. Ta cũng đã nghe tiếng con cái Israel kêu van vì bị ngườI Aicập bắt làm tôi mọi, và Ta đã nhớ lại Giao ước của Ta. Bởi vậy, ngươi hãy nói với con cái Israel: ”Ta là Giavê, Ta sẽ đem các ngươi ra từ ách khổ dịch của Aicập, Ta sẽ giựt các ngươi khỏi cảnh làm tôi mọi chúng, Ta sẽ giương cánh tay và dùng án phạt lớn lao mà chuộc lấy các ngươi. Ta sẽ lấy các ngươi làm một dân thờ Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, vì các ngươi sẽ biết Ta là Giavê, Thiên Chúa của các ngươi, Ðấng đem các ngươi từ ách khổ dịch của Aicập. Ta sẽ đem các ngươi vào đất Ta đã giơ tay thề mà ban cho Abraham, Isaac, Giacóp và Ta sẽ ban đất ấy cho các ngươi làm sở hữu. Ta là Giavê”.

Theo truyền thống Tư Tế (P), tương quan giữa Thiên Chúa và các Tổ phụ đã là tương quan giao ước. Giao ước không chỉ là biến cố lịch sử gắn liền với Mạc khải thời xuất hành, nhưng còn là một ý niệm thần học dùng để giải thích tất cả lịch sử tôn giáo của nhân loại. Giao ước đã được thể hiện nhiều lần, nhiều cách khác nhau qua các giai đoạn lịch sử và luôn luôn bao hàm ba yếu tố:

-Danh xưng của Thiên Chúa

-Lời Thiên Chúa hứa

-Một số đòi hỏi liên hệ tới Lề Luật

  1. Giao ước vớI Noe (St 9,1-17)

Noe biết Thiên Chúa dưới danh hiệu Elôhim. Thiên chúa hứa Cho ông được sự sung túc chủ quyền

trên các tạo vật. Người cấm ông ăn thịt có máu và giết người.

  1. Giao ước với Abraham (St 17)

Abraham biết Thiên Chúa dưới danh hiệu là Elshaddaỵ Người hứa ban cho ông miêu duệ và đất Canaan. Người buộc phải cắt bì cho các con trai.

  1. Giao ước Sinai (Xh 34,10-28)

Môsê và dân Israel biết Thiên Chúa dưới danh hiệu là Giavê. Người hứa ban đất Canaan và chấp nhận là Chúa của Israel. Người ban thập giới và Lề Luật.

Nhìn qua các giao ước, chúng ta có thể nhận thấy một sự tiến bộ rõ rệt:

  1. Nhận thức về huyền nhiệm của Thiên Chúa ngày càng trở nên sâu sắc hơn, và nhận thức này một phần được biểu tượng bằng Danh xưng của Thiên Chúa.
  2. Nội dung Lời Hứa mỗi lúc một rõ ràng hơn.
  3. Ðòi hỏi về Lề Luật trở nên chi tiết hơn.
  4. Liên hệ giữa Lời Hứa và Giới Răn cũng trở nên chặt chẽ và mật thiết hơn.

Trong Giao ước Sinai, Lời Hứa của Thiên Chúa chứa đựng một yếu tố tôn giáo cơ bản: Thiên Chúa sẽ ở giữa dân và với dân; dân sẽ là dân của Thiên chúa và Thiên chúa sẽ là Chúa của dân. Ý tưởng sẽ được các tiên tri lập lại và đào sâu hơn, nhấn mạnh đến tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa và dân Israel.

Các giới răn có mục đích làm cho con người xứng đáng đến gần Thiên Chúa chí thánh và phụng thờ một mình người. Tinh thần của thập giới cũng được các tiên tri đề cao, nhưng theo chiều hướng thiêng liêng hơn, nhấn mạnh nhiều đến đời sống cụ thể. Các ông còn vạch ra một viễn tượng cánh chung: một giao ước mới hoàn hảo và ghi khắc trong tim nhờ Thần Khí; Lề Luật cũng được ghi trong trái tim; dân Israel sẽ là một dân mớI có một thần trí mới

Tóm lược

Việc mạc khải Danh Thiên Chúa là một trong những biến cố quan trọng đã kết tạo nên Dân Thiên Chúa trong giai đoạn Xuất Aicập và hành trình sa mạc.

Danh xưng Giavê là ”dấu chỉ” kết hợp các chi tộc israel và là ”linh hồn” của phượng tự Do thái giáo. Chính ở Horeb và Sinai mà Danh Giavê đã mặc lấy ý nghĩa cốt yếu, có chỗ đứng rõ ràng và dứt khoát trong đời sống tôn giáo của Israel.

Ba truyền thống khác nhau kể lại việc mac khải Tên Giavê không mâu thuẫn nhau và cũng không hoàn toàn đồng nhất, nhưng bổ túc cho nhau.

Truyền thống Êlôhít (E) làm nổi bật vai trò Danh Giavê trong ý thức quốc gia dân tộc của Israel. Những người Dothái đã được mời gọi quy tụ chung quanh Thiên Chúa Giavê, kết ước với Giavê, và nhờ đó trở thành một dân riêng, một quốc gia độc lập, khác biệt với các lân bang. Dân Do thái là

một dân tộc, luôn dựa trên quá khứ để hướng về tương lai nhờ niềm cậy trông tuyệt đói vào Tên của Giavê Thiên Chúa. Danh Giavê gợi lên tất cả những gì Thiên Chúa đã, đang và sẽ làm cho Israel.

Truyền thống Giavít (Y) làm nổi bật ý nghĩa tương quan ân tình giữa Thiên Chúa và dân của Người. Danh Giavê gợi ra hình ảnh Thiên Chúa trung thành, đầy lòng nhân hậu và thương xót. Nhờ sự mạc khải Danh Giavê, dân Israel cảm nghiệm được gương mặt hiền từ của Thiên Chúa.

Truyền thống Tư Tế (P) biểu lộ rõ nét những đòi hỏi vâng phục và thánh thiện của Thiên Chúa. Dân Chúa là dân Tư Tế, tách biệt khỏi các dân khác. Dân phải tôn thờ, chúc tụng và thánh hóa Danh Giavê bằng cách thi hành giao ước và giới răn.

Tưởng niệm, kêu cầu và làm vinh hiển Danh Giavê là ba hành vi phải làm để biểu lộ tương quan giữa dân và Thiên Chúa.

(Nguyễn Trọng Lưu – còn tiếp)