Billedresultat for JESUS AND DEVIL

Linh mục Phêrô NGUYỄN KIM THĂNG

Chúa Nhật I Mùa Chay Năm A

Phúc Âm: Mt 4, 1-11

“Chúa Giêsu nhịn ăn bốn mươi ngày đêm, và chịu cám dỗ”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Khi Người đã nhịn ăn bốn mươi đêm ngày, Người cảm thấy đói. Và tên cám dỗ đến gần, nói với Người rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh”. Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: ‘Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra'”.

Bấy giờ ma quỷ đưa Người lên Thành thánh, và đặt Người trên góc tường Ðền thờ, rồi nói với Người rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá”. Chúa Giêsu đáp: “Cũng có lời chép rằng: “Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi”.

Quỷ lại đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi”. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: “Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: “Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài”. Bấy giờ ma quỷ bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ Người.

Ðó là lời Chúa.

 Matt 4, 1-11

På den tid blev Jesus af Ånden ført ud i ørkenen for at fristes af Djævelen. v2  Og da han havde fastet i fyrre dage og fyrre nætter, led han til sidst sult.

v3  Og fristeren kom og sagde til ham: »Hvis du er Guds søn, så sig, at stenene her skal blive til brød.«

v4  Men han svarede: »Der står skrevet: ›Mennesket skal ikke leve af brød alene, men af hvert ord, der udgår af Guds mund.‹ «

v5  Da tog Djævelen ham med til den hellige by, stillede ham på templets tinde v6  og sagde til ham: »Hvis du er Guds søn, så styrt dig ned. For der står skrevet: »Han vil give sine engle befaling, og de skal bære dig på hænder, så du ikke støder din fod på nogen sten.«

v7  Jesus sagde til ham: »Der står også skrevet: ›Du må ikke udæske Herren din Gud.‹ «

v8  Igen tog Djævelen ham med sig, denne gang til et meget højt bjerg, og viste ham alle verdens riger og deres herlighed v9  og sagde til ham: »Alt dette vil jeg give dig, hvis du vil kaste dig ned og tilbede mig.«

v10  Da svarede Jesus ham: »Vig bort, Satan! For der står skrevet: ›Du skal tilbede Herren din Gud og tjene ham alene.‹ «

v11  Da forlod Djævelen ham, og se, der kom engle og sørgede for ham.

Billedresultat for JESUS AND DEVIL

Chúa Nhật I Mùa Chay

 Cám Dỗ

Một cuốn phim đã gây xôn xao dư luận vào năm 1989, đó là phim “Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa” (The last temptation of Christ, phỏng theo quyển tiểu thuyết cùng tên, của nhà văn Hy lạp Nikos Kazantzakis). Cuốn phim  mô tả lúc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thánh giá. Ngài đã ngất đi và thấy mình rời khỏi thánh giá để sống một cuộc sống bình thường. Ngài đi tìm Mađalêna, cưới nàng làm vợ. Sau đó lại đến với hai chị em Matta và Maria và cũng cưới luôn hai chị em này làm vợ. Ngài có rất nhiều con và sống rất hạnh phúc…

Thực ra, nếu chúng ta đọc hết quyển tiểu thuyết thì chúng ta sẽ thấy chẳng có gì xúc phạm cả. Tuy tác giả có nói Chúa Giêsu rời thập giá và cưới 3 người vợ, có nhiều con, nhưng đó chỉ là một cơn cám dỗ của Chúa thôi. Cuối cùng Chúa đã không theo cám dỗ đó. Ngài tỉnh dậy vẫn thấy mình đang bị treo trên thánh giá, và Ngài hô lên một tiếng kêu chiến thắng “Thế là đã hoàn tất”, rồi Ngài tắt thở. Nikos Kazantzakis cũng nói rõ quan điểm của ông khi viết quyển truyện này: Ông tin Chúa Giêsu vừa là Chúa vừa là người, và ông muốn nhìn Ngài dưới khía cạnh con người. Ông muốn tưởng tượng những cám dỗ và những chiến đấu vô cùng ác liệt mà con người Giêsu đã phải đương đầu, và đã anh dũng chiến thắng như thế nào.

Những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu chịu trong bài Tin Mừng hôm nay là tiêu biểu cho những cám dỗ mà chúng ta có thể gặp.

– Cám dỗ thứ nhất (biến đá thành bánh) là tiêu biểu cho cám dỗ chỉ đi tìm những nhu cầu vật chất cho thân xác.

– Cám dỗ thứ hai (nhìn xuống các nước thiên hạ) là tiêu biểu cho lòng ham muốn quyền hành theo kiểu thế gian.

– Cám dỗ thứ ba (nhảy từ nóc đền thờ) là tiêu biểu cho lòng ham muốn được nổi tiếng, làm phép lạ để được khen ngợi, tôn vinh.

Chúa Giêsu đã chịu cám dỗ để trở nên mẫu mực cho con người chúng ta, và để con người chúng ta can đảm hơn trong khi chiến đấu với những cơn cám dỗ của chúng ta.

  1. Đã là con người thì phải bị cám dỗ. Chúa Giêsu vì mang thân xác con người nên cũng bị cám dỗ.
  2. Cám dỗ chưa phải là tội khi chúng ta chưa làm theo.
  3. Vậy cần phải có những cám dỗ để rèn luyện chúng ta và để chứng tỏ lòng trung thành của chúng ta đối với Chúa.
  4. Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta khi chúng ta gặp cám dỗ. Do đó, khi chúng ta không thể chống trả với cám dỗ thì hãy đến với Chúa để xin Ngài giúp đỡ chúng ta.

Lạy Chúa, Chúa đã chiến thắng những cơn cám dỗ của Satan, xin giúp chúng con can đảm lướt thắng những cạm bẫy trong cuộc đời.

Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ có Chúa mới là niềm vui và là hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen.

  1. Søndag i Fasten

Fristelsen

I 1989 forårsagede en film et ramaskrig, det var filmen “Den sidste fristelse” (The Last Temptation of Christ, efter den græske forfatter Nikos Kazantzakis’ roman af samme navn).

Filmen beskriver den tid, hvor Jesus blev korsfæstet på korset. Han gik i koma på korset, og så hvordan han forlod korset for at leve et normalt liv. Han mødte Magdalene og giftede sig med hende. Derefter vendte han tilbage til søstrene Martha og Maria og giftede sig også med dem. Han fik mange børn og levede et lykkeligt liv.

Hvis vi læser romanen, vil vi se, at Nikos Kazantzakis ikke krænker Jesus. Forfatteren fortæller, at Jesus forlod korset, blev gift med tre koner og fik flere børn, men det er kun en fristelse. For Herren gav ikke efter for denne fristelse. Han vågnede op og så, at han stadig hang på korset, hvorefter han råbte et sejrsråb »Det er fuldbragt.« Og han bøjede hovedet og opgav ånden. Nikos Kazantzakis gav også udtryk for sine egne synspunkter, da han skrev denne bog: Han mener, at Jesus både er Gud og menneske, og han ønskede at se ham under det menneskelige aspekt. Han ønskede at forestille sig de fristelser og den hårde kamp, som manden Jesus blev konfronteret med, og modigt overvandt.

Fristelsen, som Jesus bliver udsat for i dagens evangelium, repræsenterer de fristelser, som vi kan støde på.

 – Den første fristelse (sten blev brød) er typisk for fristelsen til kun at søge kroppens fysiske behov.

 – Den anden fristelse (at blive vist alle Verdens Riger) er typisk for at ønske magt over det verdslige liv.

 – Den tredje fristelse (at kaste sig fra taget af templet) er typisk for ønsket om at blive berømt, at gøre mirakler, at blive rost og herliggjort.

 Jesus blev fristet for at blive en model for os, så vi kan være mere modige, når vi bekæmper vores fristelser.

  1. Når vi er mennesker, så bliver vi fristede. Jesus havde en menneskelig krop, så han skulle også blive fristet.
  2. En fristelse er ikke synd, når vi ikke giver efter for den.
  3. Så vi skal blive fristede til at træne os selv og at vise vores loyalitet over for Gud.
  4. Gud opgiver os aldrig, når vi bliver udsat for fristelse. Derfor, når vi ikke kan modstå fristelsen, skal vi gå til Gud for at bede ham om at hjælpe os.

 Herre, du har vundet over Satans fristelser, hjælp os med modigt at overvinde faldgruberne i livet.

 Gør os altid overbeviste om, at kun du er glæden og den sande lykke i vores liv.

Amen.