Image result for Orthodoxe

Nguyễn Trọng Lưu

Các vụ ly khai trong lịch sử Kitô giáo

Mỗi năm – từ ngày 18 tới 25 tháng giêng, Giáo Hội Công Giáo dành một tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các kitô hữu. Vì thế, chúng ta nên và cần tìm hiểu nguồn gốc các vụ ly giáo khiến cho Kitô giáo bị chia rẽ lớn trong dòng lịch sử của mình.

Có ba vụ ly giáo trầm trọng nhất trong dòng lịch sử. Trước hết là vụ ly giáo giữa giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống năm 1054, rồi vụ ly giáo của Giáo Hội Tin Lành do Martin Luther khởi xướng năm 1517 và vụ ly khai của Anh giáo do vua Henry 8 quyết định năm 1534. Chúng ta đã tìm hiểu về hai vụ ly giáo đã làm phát sinh ”Đạo Tin Lành” và ”Anh Giáo” – hôm nay chúng ta tìm hiểu về ”Chính Thống Giáo”.

Năm 313 sau khi hoàng đế Constantino ký sắc lệnh Milano hủy bỏ việc bắt đạo, Kitô giáo bắt đầu phát triển mạnh và nhanh hơn. Năm 330 hoàng đế Constantino xây thành phố mang tên mình là Constantinopoli và tuyên bố nó là thủ đô thứ hai của đế quốc với tước hiệu là “Roma mới”. Năm 395 sau khi hoàng đế Teodosio qua đời, đế quốc Roma bị chia thành hai miền Đông và Tây. Nhưng ngay trong các năm cuối cùng của đế quốc, quyền bính chính trị, văn hóa và tôn giáo bắt đầu ngày càng di chuyển sang phía Đông. Thế rồi khi Đế quốc bên Tây sụp đổ năm 476, Đế quốc bên đông và đặc biệt là Constantinopoli ngày càng chiếm địa vị quan trọng. Sự chia rẽ cũng ngày càng gia tăng, vì bên Tây nói tiếng Latinh, trong khi bên Đông nói tiếng Hy lạp. Tất cả các yếu tố này khiến nảy sinh ra những cuộc ly khai trong 8 thế kỷ giữa Roma và Constantinopoli.

Thật ra, ngay trong các thế kỷ đầu đã xảy ra các chia rẽ giữa các kitô hữu. Năm 451 sau Công Đồng Chung Calcedonia đã xảy ra sự chia rẽ đầu tiên, bởi vì vài Giáo Hội Đông Phương không chấp nhận các kết luận của Công Đồng này. Thế là nảy sinh ra các Giáo Hội Đông Phương cổ gồm Giáo Hội chính thống Siria, Giáo Hội Assirrô hay Caldea bên Ba Tư – tức Iran ngày nay, Giáo Hội Sirô chính thống bên Ấn Độ, Giáo Hội Armeni bên Armenia, Giáo Hội Copte bên Ai Cập và Giáo Hội Etiopi bên Etiopia.

Danh xưng ”Chính Thng Giáo – Orthodoxe” – theo nguyên ngữ Hy Lạp “orthos doxa” – có nghĩa là “ca ngi đúng”, “tin tưởng đúng”. Danh xưng này được dùng trước tiên để chỉ lập trường của các Giáo Đoàn Kitô đã tham dự các Công Đồng Chung Nicea I (325), Êphêsô (431) và nhất là Chalcedon (451) – trong đó họ đã đồng thanh chấp thuận và đề cao những giáo lý được coi là chân chính, tinh tuyền của Kitô Gíáo để chống lại những gì bị coi là tà thuyết hay lạc giáo (hérésie). Từ ngữ “orthodoxe” được dùng để đối nghịch với từ ngữ “hérésie” có nghĩa là tà thuyết hay lạc giáo.

Ngày 16 tháng 7 năm 1054 hai phái đoàn Roma và Costanttinopoli ra vạ tuyệt thông cho nhau. Thế là xảy ra cuộc chia rẽ lớn nhất trong lịch sử của Kitô giáo. Kể từ đó Kitô giáo chia thành hai nhánh:

Giáo Hội Công Giáo bên Tây Phương và Giáo Hội Chính Thống bên Đông Phương.

Related image

Lý do đưa tới sự chia rẽ

Có hai lý do chính dẫn tới sự chia rẽ này: thứ nhất là từ “Filioque” thêm vào Kinh Tin Kính Niceno-Costantinopoli và thứ hai là vấn đề “Quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng”.

Trong hai Công Đồng Chung Nicea năm 325 và Costantinopoli năm 381 Giáo Hội đã đưa công thức Kinh Tin Kinh. Công Đồng Chung thứ ba nhóm tại Êphêsô đã thiết định rằng Kinh Tin Kính không thể được thay đổi nữa. Tại Toledo bên Tây Ban Nha, tức bên Tây Phương, vào năm 587 các kitô hữu đã thêm vào từ “Filioque” để ám chỉ rằng Chúa Thánh Thần bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, và được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Mục đích của việc thêm vào này là để chống lại lạc thuyết của Ario là đan sĩ, Giám Mục và thần học gia, sống giữa các năm 256-336, cho rằng bản tính thiên chúa của Chúa Con thấp hơn bản tính Thiên Chúa của Thiên Chúa Cha, và vì thế đã có một thời trong đó Ngôi Lời của Thiên Chúa đã không hiện hữu. Chỉ vào năm 1014 từ này mới được dùng trong Kinh Tin Kính và chỉ vào năm 1274 trong Công Đồng Lyon nó mới được chính thức đưa vào trong Kinh Tin Kính. Từ “Filioque” đã được Giáo Hội Công Giáo thêm vào Kinh Tin Kính trong Công Đồng Toledo năm 587, còn trong Kinh Tin Kính cùa Giáo Hội Chính Thống không có từ “Filioque”. Ngôn ngữ sử dụng trong phụng vụ của Giáo Hội Công Giáo là tiếng Latinh hay các tiếng bản xứ, còn Giáo Hội Chính Thống dùng tiếng Hy Lạp trong phụng vụ.

Liên quan tới “quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng” – người kế vị Thánh Phêrô, các văn bản phúc âm cho thấy rõ ràng tông đồ Phêrô  đã có một vai trò hàng đầu so với mười một tông đồ khác. Sau khi Chúa Giêsu về Trời các tông đồ đã hướng tới Phêrô để có một hướng dẫn trong vài thời điểm quan trọng. Liên quan tới quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng, Giáo Hội Công Giáo dựa trên việc kế vị thánh Phêrô và tin vào quyền này của người kế vị thánh nhân. Giáo Hội Chính Thống không chấp nhận sự kiện này. Mỗi Giáo Hội Chính Thống tự quản trị mình.  Liên quan tới quyền không thể sai lầm của Đức Giáo Hoàng, Giáo Hội Công Giáo chấp nhận khi Đức Giáo Hoàng tuyên bố những điều liên quan đến đức tin và luân lý “ex cathedra” – thì những điều này không thể sai lầm. Nhưng Giáo Hội Chính thống không chấp nhận quyền này.

Trước khi qua đời các tông đồ đã chọn các người kế vị là các Giám Mục. Trong tất cả các Giám Mục, người kế vị tông đồ Phêrô đã tiếp tục có quyền bính cao hơn và được gọi là Giáo Hoàng để phân biệt với các Giám Mục khác. Như thế Giáo Hoàng là thủ lãnh của Giáo Hội, vì là người kế vị tông đồ Phêrô. Đối với các kitô hữu đông phương trong thời gian trước khi xảy ra vụ ly khai lớn, Đức Giáo Hoàng đã không được coi là đầu của toàn thể Giáo Hội, kể cả Giáo Hội Đông Phương. Đối với họ, nếu phải có một vị lãnh đạo, thì vị đó phải là Đức Thượng Phụ của thành phố quan trọng nhất, nơi hoàng đế sinh sống, tức là Đức Thượng Phụ Costantinopoli. Vì thế họ cho việc Đức Giáo Hoàng đòi có quyền trên 4 toà Thượng Phụ khác là không đúng. Tưởng cũng nên ghi nhận rằng vào thời hai Giáo Hội Đông Tây ra vạ tuyệt thông cho nhau, Đức Giáo Hoàng Leo 3 đã qua đời, nên quyền của Đức Hồng Y Umberto, đặc sứ của Đức Giáo Hoàng cũng suy giảm, và vì thế đã không thể ra vạ tuyệt thông cho Đức Thượng Phụ Cerulario. Hơn nữa đã không có Công Đồng Chung nào đã ra vạ tuyệt thông cho Giáo Hội kia. Nhiều Giáo Hội Đông Phương khẳng định rằng họ vẫn hiệp thông với Giáo Hội Tây Phương, mặc dù các Giáo Hội này không là thành phần của Giáo Hội Chính

Thống. Các biến cố tiếp theo như các các cuộc thập tự chinh lại càng làm cho Đông và Tây xa nhau hơn nữa. Đặc biệt cuộc thập tự chinh năm 1204 đã gia tăng sự chia rẽ này giữa hai bên, vì các binh sĩ thập tự quân công giáo đã đánh chiếm thành Costantinopoli, cướp bóc và tàn sát các kitô hữu chính thống. Sau cùng biến cố Costantinopoli rơi vào tay quân hồi Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ năm 1453 đã không cho phép các cuộc tiếp cận giữa Roma và Costantinopoli, nghĩa là giữa các tín hữu công giáo và các tín hữu chính thống. Vì thế bắt đầu từ thế kỷ XV hai Giáo Hội ngày càng xa rời nhau hơn.

Thế rồi từ năm 1917 trở đi, và nói chung từ năm 1944, chế độ cộng sản Liên Xô đã khiến cho các Giáo Hội chính thống của Nga và của vùng Tây Âu châu phải sống dưới sự kìm kẹp và bị điều kiện hóa trầm trọng. Sự kiện này xem ra đã khiến cho người ra nghĩ rằng đông phương đã trở thành vô thần, và đã khiến cho Giáo Hội Công Giáo coi đông phương là đất truyền giáo, đến độ năm 1992 các Thượng Phụ nhóm họp tại Costantinopoli đã phản đối chống lại các hoạt động truyền giáo, cho rằng Giáo Hội Công Giáo tìm chiêu dụ tín đồ gây thiệt hại cho lộ trình hoà giải các kitô hữu đông phương và các kitô hữu tây phương.

Cho tới nay Giáo Hội Tây Phương và Giáo Hội Đông Phương vẫn còn chia rẽ và mỗi Giáo Hội tự định nghĩa là “Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Điều này gợi ý rằng với cuộc ly giáo – chính phía bên kia đã bỏ Giáo Hội đích thật. Do đó các tín hữu công giáo gọi cuộc ly giáo là “Cuộc ly giáo lớn của Đông Phương”, trong khi các tín hữu chính thống thì nói đó là “Cuộc Ly giáo của người Latinh”.

Những nét đặc trưng của Chính Thống Giáo

Trọng điểm của Chính Thống Giáo là là Thánh Kinh, Truyền Thống, trung thành với các lễ nghi, việc tôn kính Đức Maria và các Thánh. Thánh công đồng quy tụ các Thượng phụ và các Giám Mục. Các linh mục có quyền lập gia đình, nhưng không được làm Giám Mục. Các linh mục nào muốn làm Giám Mục phải sống độc thân. Các cộng đoàn đan sĩ rất đông đảo và quan trọng, các vị không được lập gia đình. Giáo Hội Chính Thống cũng có 7 bí tích như Giáo Hội Công Giáo. Tín hữu cũng tin và sùng kính Đức Maria như Mẹ Thiên Chúa. Thánh lễ chỉ được cử hành ngày Chúa Nhật và không có luật buộc tham dự. Lễ nghi thánh thể rất dài và long trọng, với trầm hương và nến. Trong thánh lễ việc truyền phép được thực thi sau một bức màn, giống như các tư tế Do Thái khi họ cầu nguyện trước Hòm Bia Giao Ước. Bánh dùng là bánh có men thường. Các nhà thờ chính thống có các ảnh “Icone” vẽ trên gỗ.

 

Những khác biệt chính giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống

Trong Giáo Hội Công Giáo hàng giáo sĩ bắt buộc phải sống độc thân. Trong Giáo Hội Chính Thống các linh mục được quyền lập gia đình, ngoại trừ các Giám Mục và các đan sĩ phải sống độc thân. Giáo Hội Công Giáo không chập nhận ly dị, còn Giáo Hội Chính Thống chấp nhận ly dị. Trong các

nhà thờ công giáo có các tượng ảnh thánh và hình vẽ, trong các nhà thờ chính thống chỉ có các icone, tức các hình vẽ trên gỗ là các cửa sổ mở lên trời.  Giáo Hội Công Giáo có tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyên tội và Đức Mẹ hồn xác lên Trời, trong khi đó Giáo Hội Chính Thống không chấp nhận hai tín điều này. Giáo Hội Công Giáo thừa nhận có luyện ngục, còn Giáo Hội Chính Thống thì không. Giáo Hội Công Giáo có tất cả 21 Công Đồng. Giáo Hội Chính Thống chỉ chấp nhận 7 Công Đồng đầu tiên. Giáo Hội Công Giáo cử hành Thánh Thể với bánh không men, còn Giáo Hội Chính Thống cử hành bí tích Thánh Thể với bánh mì, tức bánh  có men.

Giáo Hội công giáo mừng lễ Chúa Giáng Sinh vào ngày 24.12 còn Giáo Hội Chính Thống lại mừng vào ngày 6.1 – tức vào lễ Hiển Linh bên công giáo.

Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy có những sự việc đã làm rạn nứt và chia rẽ giữa thành nhiều Giáo Hội. Hãy đón nhận, kính trọng các tôn giáo khác nhau và cầu xin Chúa nối kết tất cả nên một.