Nguyễn Trọng Lưu
Cuộc đời con người thường kéo dài cả trăm năm nhưng ai cũng thấy cuộc đời ngắn như một giấc mộng mà thôi. Trong Phật giáo, cả hai truyền thống ”Theravāda” và ”Mahāyāna” không dùng cụm từ “nhân sinh như mộng”, nhưng kinh Trường A-hàm và các kinh điển trong Phật giáo đều nhấn mạnh rằng, đời sống là vô thường và vô ngã, như một giấc mộng thoáng qua. Phật giáo dạy rằng chỉ khi nhận ra và buông bỏ sự chấp trước vào “cái tôi” và “của tôi”, con người mới có thể đạt được giải thoát và giác ngộ. Không ai có một bản ngã thường hằng và thân xác con người được tạo thành bởi sự giả hợp của tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong) và khi chết, thân tứ đại lại hoàn trả về cho tứ đại.
Trong kinh Trường A-hàm, có một số bài kinh nêu bật quan điểm rằng, cuộc sống và vạn vật đều không bền vững và không có thực thể cố định, giúp con người hiểu bản chất thật của cuộc sống và thân tâm:
“Nhân sinh như mộng chợp mắt hợp tan
Hồng trần như mây vạn niên trùng phùng.”
Cuộc sống con người được ví như một giấc mộng, là để nhấn mạnh nói rằng mọi thứ chúng ta trải nghiệm, vui buồn, đau khổ, hạnh phúc, đều giống như những ảo ảnh, không thực sự tồn tại vững bền hay cố định. Khi ta tỉnh giấc nhận ra rằng, những gì ta đã trải qua không còn tồn tại nữa, điều này khuyến khích nhân sinh hướng tâm tới sự tỉnh thức, thoát khỏi ảo giác của trần gian và tìm đến sự giải thoát chân thật – tức cõi Niết bàn.
Tư tưởng này được nhiều triết gia, nhà văn, và nhà thơ cổ đại Trung Quốc nhắc đến. Nổi bật nhất là Tào Tháo (曹操), người đã sử dụng ý tưởng này trong bài thơ nổi tiếng Đoản Ca Hành (短歌行), và Trang Tử, một triết gia Lão giáo với câu chuyện “Trang Chu mộng hồ điệp” – giấc mộng biến thành bươm bướm, thể hiện sự mơ hồ giữa thực và hư. Câu này có nghĩa là cuộc đời giống như một giấc mộng, chỉ là tạm bợ và không vĩnh hằng. Câu nói này còn được phát triển trong văn học và triết lý Phật giáo nhằm nhấn mạnh sự vô thường và ảo giác của cuộc sống, nhắc nhở con người về tính chất tạm bợ của vạn vật, giống như một giấc mộng, tất cả đều qua đi không có gì là vĩnh cửu.
Một khi chúng ta hiểu cuộc đời “như mộng” – không có nghĩa là xa rời cuộc sống, mà là sống trong đời một cách tỉnh thức, không bám víu hay dính mắc: sống với tinh thần tự tại, không bi lụy trước thất bại hay quá đắm chìm trong thành công, sẵn sàng đối diện mọi hoàn cảnh với sự bình an trong tâm hồn.
Từ những lo sợ rải rác trong đời đến lo sợ về cái chết
Đến một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng ta mới nhận thấy rằng chúng ta đã trải qua quá nhiều lo sợ rải rác trong những tháng năm của cuộc đời thường. Ngay từ khi mới được mở mắt chào đời, thì cha mẹ đã lo sợ phải bao bọc cho chúng ta khỏi những ốm đau bệnh tật, khỏi những ám ảnh của ác thần. Khi lớn lên một vài tuổi, cha mẹ lại lo sợ không đủ cơm ăn áo mặc nuôi con. Rồi lo sợ không kiếm đủ tiền để cho con đi ăn đi học. Đến khi con học thành tài, lại lo đến công ăn việc làm – sau đó là lo dựng vợ gả chồng cho con. Rồi lại lo cho cháu nội cháu ngoại.
Nhưng cái lo sợ lớn nhất mà chính mỗi người sẽ tự trải nghiệm – đó là lo sợ về chính cái chết của mình: không biết khi nào mình chết? Chết như thế nào? Chết rồi sẽ ra sao? Làm sao vợ con, chồng con, cháu chắt của mình có thể sống được khi mình chết?
Những tư tưởng hiện đại về cái chết
Tất cả các sinh vật đều phải chết, nhưng chỉ có loài người mới có ý thức là mình sẽ chết. Nhận xét này không những muốn đề cao bản tính tư duy của con người nhưng còn muốn ghi nhận sự kiện là trải qua dòng lich sử, con người không phải chỉ nghĩ tới những vấn đề sinh sống mà còn bận tâm đến cái chết nữa! Mối bận tâm đến cái chết được diễn tả không những qua việc lo liệu chôn cất những người chết – với rất nhiều nghi lễ đi kèm, tùy theo tục lệ văn hóa của mỗi dân tộc – mà còn qua những tư duy, những học thuyết về nguyên nhân cái chết, về số phận của những người đã chết. Thậm chí có người dám nói rằng giả như không có cái chết thì các tôn giáo trên thế giới sẽ biến mất hết: lý do là vì con người chạy đến các tôn giáo để tìm câu giải đáp cho những băn khoăn về số phận của mình sau khi chết. Có thể chúng ta không hoàn toàn đồng ý với nhận xét đó, nhưng không ai chối được là tôn giáo nào cũng dành ra một dề mục để để trình bày về cái chết.
Thực vậy, con người không chịu chấp nhận định luật chung của các loài thụ tạo. Khi nhìn ra vạn vật, con người thấy bao cỏ cây, súc vật – sinh ra, lớn lên, già cỗi và chết đi. Đó là chuyện quá tự nhiên. Thế nhưng con người không muốn khép mình vào luật chung ấy. Con người muốn sống mãi và cái chết xem ra trái ngược với bản tính của mình.
Một số dân tộc đã cố gắng giải thích nguồn gốc cái chết qua những thần thoại và đi tới kết luận: cái chết là chuyện bất đắc dĩ – như qua hai thần thoại của Phi Châu dưới đây.
1.” Đời xưa, con người giống như con rắn, khi đã già thì lột xác và hồi sinh lại chứ không chết. Bữa nọ, có bà già dẫn cháu đi tắm. Bà để cháu ngồi trên bờ, cởi bộ da và nhào xuống nước. Đến khi lên bờ, bà đến gặp lại đứa cháu thì bị nó xua đuổi vì không nhận ra được bà ngoại của mình nữa. Bà ngoại đành trở lại khoác bộ áo da cũ, thì quả là được đứa cháu quấn quýt. Thế nhưng từ đó con người cứ phải khoác bộ da của mình mãi cho đến già và chết đi, chứ không còn được cải lão hoàn đồng nữa!”
2.”Một thần thoại khác nói rằng từ hồi nguyên sơ, chị Nguyệt từ trời sai con rùa xuống trần gian để báo tin cho loài người biết rằng: “họ sẽ không chết, nhưng mà chỉ giống như chị thôi, nghĩa là tuy có lúc tàn úa – nhưng chẳng mấy chốc sẽ sống lại”. Nhưng mà con rùa đi chậm quá, đến giữa đường quên mất điều chị Nguyệt muốn nói, nên quay về trời hỏi lại. Chị Nguyệt sốt ruột, sai chú thỏ chạy nhanh hơn. Tiếc thay chú thỏ giữa đường dừng lại chơi đùa gặm cỏ và quên khuấy đi sứ điệp nhà trời. Nhưng mà chú thỏ sợ không dám quay về hỏi lại chị Nguyệt, nên loan tin bừa cho loài người như sau: “con người sẽ chết và chết mãi mãi”. Từ đó con người mất ơn bất tử!
Nhưng cho dù nguyên nhân cái chết đến từ đâu đi nữa, hầu hết các dân tộc đều tin rằng sau khi đã chết vẫn có cái gì tồn tại. Vì thế mà có nơi người ta tiếp tục nuôi dưỡng người chết qua việc cúng bái, cung cấp lương thực, quần áo và tiền bạc cho họ – và có nơi người ta còn tìm biện pháp để đề phòng hồn phách của người chết khỏi trở về quấy phá.
Dĩ nhiên, cuộc sống bên kia thế giới đã trở thành một đề tài chính của tôn giáo và triết học. Có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc cái chết và số phận người chết, nhưng tựu trung – các tôn giáo đều khẳng định rằng con người gồm có một phần linh thiêng và một phần thể chất. Khi chết, thì phần thể chất sẽ tan rã về với bụi tro, nhưng phần linh thiêng thì tồn tại. Người ta đặt tên cho phần linh thiêng ấy là: hồn, phách, vía. Nên biết là con người có thể có nhiều hồn và vía (ba hồn bảy vía) và sau khi chết, có thể các hồn đó phát tán đi nhiều ngả khác nhau.
Trước đây, do ảnh hưởng của Kitô giáo, nhiều triết gia đã coi cái chết như là sự tách ly giữa linh hồn và thân xác. Cái chết là án phạt của tội lỗi. Nhưng vào thời cận đại, người ta cho rằng đó chỉ là quan niệm sinh lý về cái chết chứ chưa phải là suy tư triết học. Triết học cần phải đào sâu hơn về ý nghĩa của cái chết nữa.
Khuynh hướng mới của triết học về cái chết
Có thể coi Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831) là người mở đầu cho khuynh hướng mới của triết học về cái chết. Ông áp dụng biện chứng pháp để giải thích cái chết. Cái chết của cá nhân là sự sống lại của tinh thần. Tuy nhiên, không rõ Hegel muốn nói tới tinh thần nào: linh hồn bất tử của con người hay là tinh thần phổ quát đại đồng. Ludwig Andreas von Feuerbach (1804-1872) nói rõ hơn là con người phải chết đi để cho dòng giống tồn tại. Còn các triết gia mác xít – như K. Marx và E. Bloch – cho rằng những suy tư của Hegel quá trừu tượng – bởi con người cần biết chấp nhận cái chết như cái gì tự nó phải đến. Điều quan trọng là biết vận dụng khả năng để xây dựng một xã hội tươi sáng hơn cho tương lai. Cá nhân sẽ mai một, nhưng nhân loại sẽ tồn tại và thăng tiến.
Những tác giả vừa rồi coi nhẹ cái chết, bởi vì họ cho rằng cá nhân không đáng kể cho bằng tư tưởng phổ quát hay nhân loại đại đồng. Để phản ứng lại, các triết gia thuộc phái nhân vị và hiện sinh như Max Scheler (1874-1928) và Gabriel Marcel (1899-1973) đã nhấn mạnh rằng con người không phải chỉ là một phần tử vô danh tiểu tốt trong toàn bộ. Mỗi con người là một bản ngã có ý
thức về sự sống cũng như cảm thấy cái chết đụng tới chính xương tủy của mình. Triết học phải làm sao để giúp con người tìm ra ý nghĩa cái chết của bản thân. Có lẽ Karl Jaspers (1883-1969) và Martin Heidegger (1889-1976) đã đề ra những suy tư thâm thúy nhất về bí nhiệm của sự chết. Tư tưởng của hai triết gia nguời Đức này có thể được tóm lại trong ba điểm sau đây:
- Cái chết ảnh hưởng đến con người toàn diện, chứ không phải chỉ liên can tới thân xác. Thực vậy, không phải chỉ có cái xác chết đi, mà là toàn thể con người chết đi: con người không còn hiện hữu trên mặt đất này nữa, đã mất đi chủ thể gồm bởi tinh thần và thân thể, mất đi sự liên lạc với tha nhân, với xã hội, với vũ trụ.
- Cái chết kết thúc khả năng tiến triển của con người toàn diện. Bao lâu còn sống trên mặt đất, con người còn có đà phát triển đủ mọi mặt, dù tốt dù xấu. Cái chết đóng dấu ấn chung kết vình viễn trên sự nghiệp của con người, tột đỉnh của những gì mà đương sự đã thực hiện được.
- Cái chết luôn đi theo con người ngay từ lúc chào đời. Có thể nói được là “con người sinh ra để mà chết”. Tuy nhiên, đang khi mà những sinh vật khác bị cái chết đè nặng bất khả kháng, thì con người có thể đón nhận cái chết với ý thức và tự do. Con người có thể tự do đón nhận cái chết, và chuẩn bị tiến đến cái chết không phải như giây phút kết liễu cuộc sống bèn là như thời điểm hoàn tất cuộc đời, kết thúc một cuộc sống đầy ý thức trách nhiệm.
Ngoài hai luồng tư tưởng duy tâm và hiện sinh vừa nói, dĩ nhiên còn có nhiều luồng tư tưởng khác nữa, trong đó phải kể tới triết gia Pháp Jean-Paul Charles Aymard Sartre (21.06.1905 – 15.04. 1980). Jean Paul Sartre coi cái chết như cái gì phi lý vô nghĩa! Có người khác thì ca ngợi cái chết vì nó đã thực hiện được sự bình đẳng trong xã hội: dù sang hèn, mạnh yếu, giỏi dốt, da đen hay da trắng, hữu thần hay vô thần, nam nữ, tất cả mọi người đều bình đẳng trước cái chết, bởi vì tử thần không tha ai hết!
Ngoài ra, còn phải kể đến rất nhiều triết gia không muốn nói tới cái chết. Nên lưu ý là ở đây chúng tôi muốn nói tới những luồng triết học hoàn toàn dựa theo suy luận của lý trí, và không muốn đả động tới tín ngưỡng, bởi họ không muốn tra cứu niềm tin Kitô giáo.
Dù sao, cái chết không phải chỉ là một vấn đề được đặt ra cho ngành y khoa và luật pháp. Ngành y học muốn đặt ra một tiêu chuẩn xác định lúc nào thì coi như con người đã chết. Thời xưa, con người được coi là đã chết khi đã tắt thở: trút hơi thở cuối cùng hay tim đã ngừng đập. Còn y học cận đại tuyên bố con người chết khi mà các chức năng não bộ đã ngưng. Sự xác định lúc chết rất là quan trọng, bởi vì từ lúc đó mới có thể thực hiện những việc mổ ghép các bộ phận cốt tủy -như tim, não.
Hơn thế – như chúng ta đã biết, luân lý học và y học đang tranh luận về cái gọi là “chết êm dịu”: có được phép kết liễu mạng sống của một bệnh nhân theo lời yêu cầu của đương sự hay không? Làm như vậy là thương họ hay giết họ? Bệnh nhân có quyền định đoạt mạng sống của mình hay không? Việc chết êm dịu là chuyện riêng tư giữa bệnh nhân và bác sĩ, hay là chuyện có liên hệ tới xã hội, cần được pháp luật can thiệp?
- Khi còn sống, nếu là công dân tốt, thì ít khi chúng ta có vấn đề với pháp luật. Thế nhưng, khi vừa nhắm mắt thì dù lương thiện hay bất lương, pháp luật cũng sẽ dúng tay vào: nào là khám nghiệm tử thi, nào là cấp giấy phép an táng, nào là truy hỏi gia tài. Người ra đi thì đã yên thân, nhưng kỳ thực họ đã để lại bao nhiêu chuyện cho những người ở lại: kẻ thì thương tiếc nhớ nhung, kẻ thì thở phào nhẹ nhõm, thậm chí có kẻ còn nguyền rủa nữa. Dù sao, thì phải có ai đứng ra lo chuyện mai táng, chứ không thể để cho xác rữa xông mùi! Nhưng trước đó còn phải quyết định xem: chôn ở đâu? chôn hay thiêu?
Chính vì thế mà triết gia Martin Heidegger đã nhận định: ”Con người là hữu thể hướng đến cái chết”. Hữu thể người lúc nào cũng lo âu về những dự phóng của đời mình, luôn xao xuyến về việc thực hiện bản thân của mình cho thấy một sự mong manh, dang dở, đe dọa căn bản nào đó. Từ khi cất tiếng khóc chào đời cho đến khi trở thành một người già “gần đất xa trời” là một quá trình dài – mà theo bản năng, con người thường ý thức trước được cái chết của mình.
Khi ý thức được cái chết sẽ đến với mình thì con người sẽ ra đi thật thanh thản. Đứng trước cái chết, có lẽ không nên dùng từ “lo lắng” để diễn tả mà nên thay bằng từ “nhận thức” có lẽ phù hợp hơn: cần nhận thức được sự tồn tại của đặc tính “sống” và “chết” trong bản thân và làm cân bằng mối quan hệ giữa này.
Các triết gia luôn có một cái nhìn lạc quan và thanh thản trước cái chết. Socrate (469-399) đã từng nói: “Chúng ta chiến đấu cho cái gì trong cuộc đời? Đó là để thoát ra khỏi thân xác và những xấu xa do đời sống thân xác mang lại. Vậy thì tại sao ta lại không hân hoan khi cái chết tới gần?” Còn đối với Platon (427-347): “Triết học là môn học dạy cho người ta biết sống và biết chết cho hợp đạo làm người”.
Trong những bài thuyết trình và khảo cứu của chúng tôi, chúng tôi luôn khởi từ nhận định rằng triết lý là chính cuộc sống, là những suy tư về cuộc đời, để sống khôn ngoan, sáng suốt và hạnh phúc – như qua các bài “Sống, chết và sống lại”; “Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời”; “Tình yêu không chết và đó là dấu chỉ của sự sống lại”; “Chết lúc chết và chết lúc đang sống”. Triết lý là một nỗ lực không ngừng của con người đi tìm chân lý và hạnh phúc trong đời – nhưng tuyệt cùng của đời người lại là cái chết – nên con người phải có những giây phút tư duy về cái chết.
Triết học có mục đích tra vấn về mục đích cuộc đời còn tôn giáo là để giải quyết vấn đề do triết học đề ra. Triết học luôn tư duy về sự kiện”con người sống ở trên đời để làm gì và chết rồi đi đâu?”. Các tư duy này đều có một liên hệ khăng khít với nhau: hễ biết được sinh thì sẽ biết được tử và ngược lại biết được tử sẽ biết được sinh. Một khi đã biết được lẽ tử sinh tử này thì sẽ biết sống trên đời để làm gì.
Nhưng triết học chỉ biết đưa ra câu hỏi mà không bao giờ có thể có câu trả lời. Lý do là vì triết học đã đặt nền móng tư duy dựa trên khái niệm. Với câu hỏi “con người sinh ra bởi đâu?” thì danh từ “con người” đơn thuần chỉ là khái niệm – mà nếu chỉ là một khái niệm, thì làm sao biết được con người sinh bởi đâu? Mà bởi đã đặt nền trên khái niệm thế nên triết học dù là Đông hay Tây cũng không thể giải quyết được vấn đề do nó đặt ra. Có người hỏi Đức Khổng Tử: ”Chết là thế nào?” thì ngài đáp: “Chưa biết sống thì biết thế nào việc chết? – Vị tri sinh, an tri tử?” (Luận Ngữ)
Một khi triết học không thể có câu trả lời thỏa đáng về vấn nạn đặt ra, thì chúng ta phải đi tìm giải đáp ở những chỗ khác.
”Đừng chết lúc đang sống, mà hãy sống khi đã chết!”
Nhưng làm sao lại có thể “chết lúc đang sống và vẫn sống khi đã chết được?” Bởi sống và chết là hai bề mặt của cùng một đời người nhưng đến ở hai thời điểm khác nhau với hai khía cạnh hoàn nghịch chống: “lúc sống thì chưa chết mà khi đã chết thì không còn sống nữa!”
“Những người chết lúc đang sống!”
Đó là những người sống với tâm địa gian ác và làm điều ác. Vì đã bị hủy hoại ở nhiều phương diện – nên những người này – dù xác thân còn sống, thực sự họ đã chết rồi!
Lương tâm là ơn Đức Chúa ban cho con người để phân biệt được điều gì tốt điều gì xấu, khi làm điều tốt thì lương tâm thanh thản, an ủi – còn khi làm điều xấu lương tâm cắn rứt. Mà một khi lương tâm chết rồi – nó không còn cắn rứt nữa: khi làm điều xấu mà không cảm thấy cắn rứt nữa, thì lương tâm đó chết rồi!
Luân lý là những mẫu mực, quy tắc để hành xử cho đúng đạo lý. Khi cư xử không còn theo đạo lý nữa, không còn biết điều xấu nữa, thì luân lý đó chết rồi: nó không bị chi phối bỏi những quy luật đạo lý nữa!
Lý trí là khả năng giúp người ta biết phân định những giá trị cao thấp khác nhau – như “thời gian lớn hơn không gian, toàn phần lớn hơn một phần”. Bây giờ người ta chọn một phần mà quên đi toàn phần thì cái đó là cái chết của lý trí – không còn phân định được toàn bộ – mà lại chọn các giá trị thấp và bỏ các giá trị cao!
Chính trị chính là nghệ thuật tổ chức sắp xếp để cho mọi người được hạnh phúc. Ý thức hệ chính trị đã chết trong lòng người ác: đó chính là nguyên nhân làm cho họ phá hủy môi sinh của toàn nhân loại!
Không thiếu những nơi trên thế giới, người ta khai thác gỗ, khái thác rừng cây – mà chẳng để ý bảo vệ gia sản chung của toàn nhân loại. Nạn đổ rác bừa bãi, làm ô nhiễm môi sinh. Những dịch vụ kiếm tiến qua nạn ấu dâm. Trong hoàn cảnh dịch bệnh hiện nay, những người bán buôn đầu cơ tích trữ, tăng giá hàng lên cao vút để kiếm lợi nhuận, làm cho dân nghèo không thể mua được những nhu yếu phẩm hàng ngày để sống, khiến cho dân chết đói. Những người làm như thế – tuy xác thân còn đang sống, nhưng thực sự họ đã chết!
Những người nói về người khác mà không biết rõ hoặc thêm thắt câu kia chữ nọ – có khi không cố tình làm hại người khác, nhưng lại vô tình đã dựng nên những tường vách, cách ngăn, những “ngục tù vô hình”. “Ngục tù vô hình” cũng được dựng xây khi tâng bốc nhau, khi nịnh bợ nhau, đưa nhau lên một ngôi vị đè bẹp những người khác, làm cho người khác không còn cảm nhận được nhân vị của mình nữa, bắt họ phải kéo dài cuộc sống trong một vỏ ốc bưng biền. “Ngục tù vô
hình” được dựng xây khi lòng ghen ghét hận thù hằn sâu trong tâm khảm để rồi chỉ còn biết “nhìn” và “lên án” người khác qua lăng kính chủ quan tự vẽ đó. Đó chính là chiếu lên người khác những gì mình đang có trong não trạng của mình: mình trở thành một tên khủng bố phá hoại đời mình và đời người. Những ngục tù vô hình này còn dần dà đưa đến cái chết cho tha nhân ngay khi họ đang sống – mà không cần đến khi chết và được chốn cất trong nghĩa trang mới là chết thực. Chính khi muốn loại trừ, muốn xóa bỏ người khác khỏi tâm trí mình, khỏi gia đình mình, khỏi cộng đoàn, cộng đồng và khỏi xã hội đang sống, thì chính lúc đó chúng ta đã giết người và đem chôn sống họ rồi: : sống như thế thì chẳng khác đã chết lúc đang sống vậy!
Những người này, tuy còn sống, nhưng thực sự họ đã chết: chết vì không còn tình người, không còn trái tim nhân loại, không còn đập cùng nhịp đập với tha nhân.

