ga
NĂM DẬU NÓI CHUYỆN GÀ

Con Gà cục tác lá chanh
Con Lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con Chó khóc đứng khóc ngồi
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.

Bốn câu thơ bình dân trên đã mô tả đúng cách nấu ăn của dân tộc ta tại thôn quê miền Bắc.  Con Gà được nhắc đến trước tiên có lẽ vì thịt Gà là một trong những món ăn quen thuộc , vừa ngon miệng và đầy đủ dinh dưỡng.Người dân Giao Chỉ chúng ta sành ăn đã biết biến chế ra nhiều món nào là: Gà rô ti, gà xào xã ớt, gà xối mỡ, gà ram mặn, gà nướng ngũ vị hương, gà nấu mắm, gà hấp muối, gà cà ri, cành gà chiên bơ, gà tiềm thuốc bắc … và còn nhiều kiểu nấu khác …
    
Vào cuối thập niên 1950, tại Sàigòn có cuộc bút chiến giữa hai tờ nhật báo về vụ Gà Mỹ và Gà Ta. Vào thời điểm này, có phong trào nuôi gà Mỹ do bộ Canh Nông khuyến khích và hướng dẫn.  Gà được nuôi trong chuồng bằng lưới kẽm và cho ăn loại thực phẩm trộn sẵn.  Những độc giả tham gia cuộc chiến, và đã chia ra làm hai nhóm và với hai quan điểm khác nhau:

Nhóm gà Mỹ: Cho rằng nuôi theo kiểu Hoa Kỳ khoa học hơn, sản xuất mau chóng, gà ít bị mắc bệnh, ăn hợp vệ sinh hơn.

Nhóm gà Ta: Chủ trương nuôi gà theo phương pháp tự nhiên, thả chạy rong ngoài vườn để gà tự do bươi đất tìm thức ăn như côn trùng, giun dế..do đó thịt cứng và thơm ngon.

Cuộc bút chiến càng ngày càng sôi nổi, có người còn ví von gà Mỹ như cô gái thị thành, trắng trẻo, mềm mại, trông hấp dẫn nhưng da thịt nhão, ăn mau chán.

Ngược lại gà rẫy được ví như cô gái quê miệt vườn, tuy trông quê mùa nhưng da thịt cứng cáp, hương vị đậm đà, ngát thơm hương cốm.

Trong lúc trận bút chiến đang hồi gay cấn, ông Kỹ Sư canh nông đặc trách chương trình chăn nuôi liền viết một bài lên tiếng trên mặt báo:  Cho rằng nuôi gà theo kiểu Mỹ lợi tức cao, thịt gà tinh khiết hợp tiêu chuẩn vệ sinh. Riêng ông, vì nặng lòng với quốc gia dân tộc, cá nhân ông vẫn thích ăn gà ta! Thế là cả hai phe lâm chiến đều vui vẻ, đồng ý hoà hợp dân tộc, sống chung hoà bình.

Con gà rất gần gũi với giới bình dân Việt Nam. Vào dịp tết Nguyên Đán, người ta thường treo lên vách bức tranh gà sặc sở cho có vẽ mùa Xuân.

     Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Om xòm trên vách bức tranh gà.
  (Tú Xương)

   Trong đêm khuya thanh vắng tiếng gà gáy là đồng hồ báo thức bác nông dân để sửa soạn ra đồng, hoặc báo cho chú Tiểu trong chùa pha trà, nện chuông cúng Phật:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.

Hoặc:
Canh gà điểm nguyệt, tiếng chày nện sương.

Trên đường ra chợ lúc còn tinh sương, các cô gánh hàng cũng nghe văng vẳng tiếng gà bên tai:

Sớm mai gà gáy ó o
Chưa ra tới chợ­, đã lo ăn hàng.

   

Thậm chí, cách trang điểm của đàn bà ViệtNam cũng liên hệ đến con gà.  Kiểu bới đầu có thả vòng  và chừa một chỏm tóc phía sau ót gọi là “bới tóc đuôi gà”. Nơi nhãn hiệu xà bông Cô Ba của hãng Trương Văn Bền thời tiền chiến, có hình kiểu bới tóc này.  Cục bưu chính Đông Dương trước kia cũng đãphát hành một loại tem có hình cô Ba, với búi tóc đuôi gà.

Chàng thanh niên chất phác, vì quá yêu cô thôn nữ, có thể đón đường cô gái để tỏ tình một cách táo bạo:

    Chị kia bới tóc đuôi gà
Nắm đuôi chị lại hỏi nhà chị đâu?
…Nhà tôi ở dưới đám dâu
Ở bên đám dậu, đầu cầu ngó qua…

Gà sống quanh quần sau hè, gần gủi với loài người, nên dễ nhận xét điệu bộ, diện mạo của gà.  Do đó, mọi việc hay dở đều lôi con gà ra đề ví von:
   

Người có bộ mặt ngơ ngác gọi là “gà mở cửa mã”
Người xơ xác gọi là “gà kẹt giỏ”
Người tiều tuỵ gọi là “gà mắc nước”
   

Kẻ ngất ngư gọi là “gà nuốt giây thun”
Kẻ khù khờ gọi là “gà trống thiến”
Kẻ nhát gan gọi là “gà phải cáo”
Kẻ nhầm lẫn gọi là “trông gà hoá quốc”
Kẻ bất tài gọi là “gà què ăn quẩn cối xay”
Kẻ phản bội gọi là “gà nhà bôi mặt đá nhau”

Trước cảnh huynh đệ tương tàn, người ta hay khuyên bảo:
   Khôn ngoan đối đáp người ngoài
   Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

 Sau cùng, các người đàn bà đanh đá được tặng cho hỗn danh: 
    Nữ kê tác quái, gà mái đá gà cồ.

Gà thuộc loại hạ đẳng, chỉ dùng làm thực phẩm bình dân hàng ngày, không thể thết đãi hàng thượng khách.  Trong buổi tiệc lịch sử tại Bắc Kinh do Chủ tịch Mao Trạch Đông khoản đãi Tổng thống Nixon năm 1972, gồm hai mươi mốt món, nhưng không có món thịt Gà.  Quả thật người Trung Hoa rất tế nhị trong vấn đề ăn uống.

Ở nước ta, Cụ nguyễn Đình Chiểu cũng rất gần sành nghi thức đãi tiệc.  Trong bài thơ Ông Quán, cụ Đồ đã chào hàng một cách thật hấp dẫn:
    Quán rằng thịt cá ê hề
Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu
Kìa là thuốc lá ướp ngâu
Trà ve tuyết điểm, rượu bầu cúc hương
Để khi đãi khách giàu sang
Đãi người danh vọng, đãi trang anh hùng.

Billedresultat for gà

Như vậy, trong thực đơn của cụ Đồ Chiểu cũng không có món thịt gà. Trong văn chương cũng như ngôn ngữ hằng ngày, con gà dù được nhân cách hoá cũng chỉ nói đến những người thường bình dân, còn những bậc chính nhân quân tử thì được ví như những con Phượng hoàng trên cao mà thôi:

Phượng hoàng đậu nhánh cheo leo
Sa cơ thất thế phải theo đàn gà
Bao giờ mưa thuận gió hoà
Thay lông đổi cánh lại ra Phượng hoàng.

Vậy mọi người trong chúng ta có ai đã thấy được Phượng hoàng chưa?

Nguyễn Phước Mộng Thiên.